ĐAU NGỰC
Đau ngực là một trong những triệu chứng khá thường gặp tại phòng cấp cứu, do nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên, trong đó có những nguyên nhân nguy hiểm, trực tiếp đe doạ tính mạng người bệnh nếu không được chẩn đoán và xử trí kịp thời.
TỔNG QUAN VỀ TRIỆU CHỨNG ĐAU NGỰC
Đau ngực thường làm mọi người lo sợ và nghĩ ngay đến nhồi máu cơ tim. Thật ra, bất cứ cơ quan nào trong lồng ngực như tim, phổi, động mạch, thành ngực hay mô mềm,… khi bị tổn thương thì đều dẫn đến đau ngực. Tùy theo bệnh lý mà đặc điểm cơn đau ngực sẽ khác nhau.
Thực tế, có tới 30% các cơn đau ngực đi kèm với các triệu chứng nhẹ mà người bệnh không nhận ra hoặc có thể chịu đựng trong một khoảng thời gian ngắn và cố gắng vượt qua chúng.
Dựa trên nghiên cứu của Fruerfaard và cộng sự về các chẩn đoán bệnh nhân nhập viện bị đau ngực cấp tính nhưng không có nhồi máu cơ tim tại các khoa cấp cứu, đau ngực là nguyên nhân nguy hiểm thứ 2 chiếm khoảng 5% trong tổng số ca nhập viện cấp cứu. Trên toàn thế giới, đau ngực ảnh hưởng từ 20% đến 40% dân số nói chung.
Trong đó, Hội chứng mạch vành cấp (ACS) chiếm khoảng 31% các trường hợp nhập viện cấp cứu, bệnh trào ngược đường tiêu hóa chiếm 30%, đau lồng ngực đến từ cơ xương khớp lên đến 28% và một số bệnh lý về hệ hô hấp và tiêu hóa khác.
Nguyên nhân gây đau ngựcĐau ngực là gì?
Đau ngực là cảm giác đau ở vùng ngực từ mức ngang vai đến mức dưới cùng của xương sườn. Cơn đau xuất hiện dưới nhiều hình thức từ đau nhói đến đau âm ỉ, đau kéo dài hoặc thoáng qua, cơn đau xuất hiện tại ngực bên trái hoặc phải, đôi khi lan rộng ta toàn bộ vùng ngực. Đau ngực có thể kèm theo triệu chứng khó thở, đau đầu, chóng mặt,…
Triệu chứng đau ngực phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe và cơ địa của mỗi người mà cơn đau cũng khác nhau về tần suất, cường độ, khoảng thời gian và vị trí đau. Vì vậy, chẩn đoán nguyên nhân gây đau ngực đôi khi rất khó khăn và đòi hỏi cần thời gian. Nhưng điểm quan trọng nhất đối với các bác sĩ là cần phải chẩn đoán xác định hoặc loại trừ được các nguyên nhân gây đau ngực nguy hiểm, đe dọa tính mạng bệnh nhân như: cơn đau thắt ngực không ổn định, nhồi máu cơ tim, bóc tách động mạch chủ ngực, thuyên tắc phổi, tràn khí màng phổi áp lực,…
Sinh lý bệnh và phân loại triệu chứng đau ngực
Hạch giao cảm tại ngực được phân nhánh đến tim, phổi, thực quản và các mạch máu lớn trong lồng ngực. Các nguyên nhân bất thường gây kích thích đau tại các cơ quan này, nhưng do có sự chồng chéo giữa các sợi hướng tâm trong hạch giao cảm lưng vì vậy các cơn đau có thể truyền dẫn đến các vị trí xung quanh khiến người bị đau ngực có cảm giác cơn đau thường lan ra diện rộng, xuất hiện tại nhiều cơ quan, khó xác định chính xác vị trí đau.
Hiện tượng đau ngực có thể đến từ nhiều nguyên nhân khác nhau, các bộ phận bị tổn thương có thể gây ra cơn đau như tim, phổi, thực quản, dạ dày, cơ, xương sườn hoặc dây thần kinh xung quanh lồng ngực. Đau ngực có thể xuất phát từ nhiều vị trí như đau ngực bên trái, đau ngực bên phải, cổ, vai, lưng đến phần bụng trên. Vì vậy, để quá trình chẩn đoán và điều trị được thuận tiện, đau ngực được chia theo vị trí cơn đau xuất hiện, bao gồm:
- Đau ngực do tim.
- Đau ngực do phổi.
- Đau ngực do hệ tiêu hóa.
- Đau ngực do cơ xương khớp.
- Đau ngực do các nguyên nhân khác.
ĐAU NGỰC LÀ DẤU HIỆU BỆNH GÌ?
Nguyên nhân gây triệu chứng đau ngực đến từ nhiều nguyên nhân do tim hoặc không do tim. Các nguyên nhân có thể gây ra triệu chứng đau ngực như:
Nguyên nhân đau ngực do tim |
|
Do mạch vành | Cơn đau thắt ngực |
Nhồi máu cơ tim | |
Không do mạch vành | Viêm màng ngoài tim |
Viêm cơ tim | |
Bệnh cơ tim phì đại | |
Sa van hai lá | |
Bóc tách động mạch chủ | |
Tăng áp động mạch phổi | |
Thuyên tắc phổi |
Nguyên nhân đau ngực không do tim |
|
Liên quan hệ hô hấp | Bệnh lý liên quan màng phổi: viêm màng phổi, tràn khí/ dịch/ mủ màng phổi |
Bệnh lý liên quan nhu mô phổi: viêm phổi/ áp xe phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), hen phế quản, ung thư phổi | |
Bệnh lý liên quan trung thất: u, tràn dịch, tràn khí,… | |
Liên quan hệ tiêu hoá | Trào ngược dạ dày – thực quản |
Viêm dạ dày – tá tràng | |
Loét dạ dày – tá tràng | |
Thủng thực quản | |
Rối loạn chức năng nuốt | |
Sỏi mật | |
Viêm túi mật | |
Viêm tuỵ | |
Liên quan cơ xương khớp | Viêm khớp sụn sườn |
Đau/ căng cơ | |
Chấn thương thành ngực (gãy xương sườn, dập cơ) | |
Các nguyên nhân khác | Liên quan tâm lý: rối loạn lo âu, trầm cảm,… |
Bệnh Zona thần kinh, viêm dây thần kinh liên sườn |
Nguyên nhân gây đau ngực có thể dựa theo vị trí các cơ quan bao gồm:
- Nguyên nhân liên quan đến tim.
- Nguyên nhân liên quan đến phổi.
- Nguyên nhân liên quan đến từ hệ tiêu hóa.
- Nguyên nhân do cơ xương khớp.
- Đau ngực do các nguyên nhân khác.
Nguyên nhân đau ngực liên quan đến tim
Trái tim cần một nguồn cung cấp máu tốt giống như bất kỳ cơ bắp nào khác trong cơ thể. Các động mạch vành chịu trách nhiệm cung cấp máu cho cơ tim. Đau ngực do tim thường do động mạch vành bị hẹp lại làm giảm nguồn cung cấp máu cho tim, nếu giảm một phần gây ra cơn đau thắt ngực, nếu tắt hoàn toàn sẽ gây nhồi máu cơ tim.
Cơn đau thắt ngực
Thành mạch cứng, dày, mảng cholesterol (mảng mỡ hay mảng xơ vữa) dần dần có thể tích tụ lên thành trong của các động mạch vành. Mảng xơ vữa có thể hình thành dần dần qua nhiều năm, tại một hoặc nhiều nơi trong động mạch vành.
Khi người bệnh nghỉ ngơi, việc giảm nguồn cung cấp máu cho cơ tim do mảng xơ vữa có thể vẫn đủ. Tuy nhiên, khi tim làm việc nhiều hơn (ví dụ, khi đi bộ nhanh hoặc leo cầu thang), cơ tim cần nhiều máu và oxy hơn. Nếu lượng máu tăng thêm không thể chảy qua các động mạch vành bị hẹp, tim sẽ thiếu máu và người bệnh sẽ thấy đau thắt ngực.
Có hai dạng đau thắt ngực là: đau thắt ngực ổn định và đau thắt ngực không ổn định. Cơn đau thắt ngực ổn định có các đặc điểm của cơn đau không thay đổi trong ít nhất 2 tháng, thường có 7 đặc điểm sau:
- Vị trí: thường đau ở vùng sau xương ức hoặc đau ngực trái, đau có thể lan lên cổ, hàm dưới, vai trái và lan đến mặt trong cánh tay, cẳng tay trái, các ngón tay 4, 5.
- Tính chất: đau ngực có cảm giác như bóp chặt, thắt nghẹt, đè nặng trước ngực.
- Cường độ: vừa phải, bệnh nhân chịu đựng được nhưng buộc phải nhân gắng sức.
- Hướng lan: ra hai cánh tay, thường là bên trái nhiều hơn, có khi lan lên cổ tới hàm dưới.
- Thời gian cơn đau: thường kéo dài khoảng vài phút (5 – 10 phút), nếu đau ngực kéo dài > 20 phút phải nghĩ đến cơn đau thắt ngực không ổn định hoặc nhồi máu cơ tim.
- Hoàn cảnh khởi phát cơn đau: thường xuất hiện khi gắng sức, xúc cảm mạnh, gặp lạnh, sau bữa ăn nhiều.
- Hoàn cảnh làm giảm đau: cơn đau thắt ngực giảm khi bệnh nhân ngưng gắng sức hoặc sau khi ngậm nitroglycerin dưới lưỡi.
Một số bệnh nhân có thể có triệu chứng đi kèm như buồn nôn, khó thở, hồi hộp.
Cơn đau thắt ngực không ổn định là tình trạng nghiêm trọng hơn và nếu không được xử trí kịp thời có thể dẫn đến nhồi máu cơ tim. Để phân biệt đau thắt ngực ổn định và không ổn định sẽ dựa vào hoàn cảnh xảy ra cơn đau thắt ngực: khi nghỉ ngơi hay khi gắng sức. Trong đau thắt ngực không ổn định, các cơn đau ở ngực xảy ra kể cả khi người bệnh đang nghỉ ngơi không có hoạt động thể lực, có thể xảy ra bất kỳ thời điểm nào, không liên quan đến gắng sức, kéo dài hơn thường 10 – 15 phút, tạo cảm giác như lồng ngực bị thắt lại và tần suất nhiều lần,…
Đau thắt ngực là biểu hiện quan trọng nhất giúp nhận biết bệnh mạch vành tim. Một cơn đau thắt ngực do bệnh mạch vành thường bao gồm 3 đặc điểm sau:
- Đau thắt ngực ở vùng sau xương ức với tính chất và thời gian điển hình như trên.
- Xuất hiện khi gắng sức hoặc cảm xúc nhiều.
- Giảm đau khi nghỉ hoặc dùng nitrates.
Nhồi máu cơ tim
Nhồi máu cơ tim (đau tim) là tình trạng động mạch vành chính hoặc một trong các nhánh nhỏ hơn bị tắc nghẽn đột ngột dẫn đến lưu lượng máu vận chuyển đến tim không đủ. Nếu không được nhanh chóng loại bỏ tắc nghẽn, phần cơ tim này có nguy cơ chết đi, lúc đó chức năng bơm máu của tim không còn toàn vẹn như trước và có thể gây suy tim, sốc tim hay đột tử do tim. Xơ vữa động mạch là nguyên nhân chính gây nhồi máu cơ tim.
Các triệu chứng phổ biến nhất của một cơn đau tim là đau ngực dữ dội khi nghỉ ngơi. Bệnh nhân thường cảm thấy nặng ngực. Cơn đau tức ngực có thể lan lên xương hàm hoặc xuống cánh tay trái hoặc cả hai cánh tay. Người bệnh cũng có thể vã mồ hôi, cảm thấy mệt, chóng mặt và khó thở. Cơn đau giống với đau thắt ngực nhưng nặng hơn và kéo dài hơn.
Cơn đau thắt ngực
Viêm cơ tim là tình trạng viêm lớp cơ dày của thành tim khiến cơ tim bị tổn thương viêm và hoại tử, ảnh hưởng tới chức năng co bóp của cơ tim. Viêm cơ tim thường có các triệu chứng giống như những cơn đau tim như đau ngực bên trái, mệt mỏi, tim đập nhanh, khó thở và sốt cao.
Viêm màng ngoài tim
Viêm màng ngoài tim là tình trạng viêm hoặc nhiễm trùng màng xung quanh tim, thường gây ra các cơn đau nhói ngực và trở nên nặng hơn khi người bệnh cố gắng hít thở, nuốt thức ăn hoặc khi nằm xuống. Cơn đau thường xuất hiện sau xương ức, đau nhói ngực bên trái và lan rộng sang vai trái.
Bệnh cơ tim phì đại
Bệnh cơ tim phì đại là căn bệnh di truyền khiến cơ tim dày lên bất thường, đôi khi gây ảnh hưởng đến lưu lượng lưu thông máu ra khỏi tim. Theo thời gian, suy tim có thể xảy ra khi cơ tim trở nên rất dày, khiến tim làm việc nhiều hơn để bơm máu. Ngoài bị đau ngực, bệnh cơ tim phì đại cũng khiến người bệnh cảm thấy khó thở, chóng mặt, choáng váng dẫn đến ngất xỉu.
Sa van hai lá
Sa van hai lá là tình trạng tim không thể đóng lại đúng cách, một loạt các triệu chứng thường xuất hiện như đau lồng ngực, tim đập nhanh, khó thở và chóng mặt. Tuy nhiên, trong một số trường hợp sa van hai lá nhẹ người bệnh cũng không có triệu chứng nào.
Bóc tách vành động mạch chủ
Bóc tách vành động mạch chủ là tình trạng các lớp bên trong động mạch chủ bị tách rời nhau, máu sẽ bị chèn ép giữa các lớp và có thể gây vỡ động mạch chủ. Đây là một bệnh lý nguy hiểm, có thể gây tử vong nhanh chóng.
Bóc tách đoạn lên của động mạch chủ gây đau vùng trước ngực trong khi bóc tách đoạn xuống gây đau giữa hai xương bả vai. Đau như xé, như dao đâm, lan sau lưng.
Tiền căn tăng huyết áp hoặc bệnh lý mô liên kết như hội chứng Marfan làm tăng nguy cơ bóc tách động mạch chủ.
Tăng áp động mạch phổi
Tăng áp động mạch phổi là sự tăng bất thường áp lực động mạch phổi có thể là hậu quả của suy tim trái, tổn thương nhu mô phổi hoặc bệnh lý mạch máu, huyết khối tắc mạch hoặc sự kết hợp của các yếu tố trên. Do máu bơm lên phổi để trao đổi oxy bị cản trở nên người bệnh sẽ có triệu chứng nặng ngực, khó thở khi làm việc nhiều, thiếu oxy có thể làm ngất khi gắng sức. Lâu dần có thể có dấu hiệu của suy tim phải (gan to, phù chân,…).
Thuyên tắc mạch phổi
Thuyên tắc mạch phổi (pulmonary embolism – PE) là tình trạng mạch máu trong phổi xuất hiện một khối máu đông và chặn dòng lưu thông của máu. Khối máu đông gây cản trở quá trình trao đổi khí, có thể đe dọa đến tính mạng. Đau ngực kiểu màng phổi khởi phát đột ngột, có thể đau kiểu đè ép trong thuyên tắc phổi lớn, thường gây đau một bên ngực trái hoặc phải, đau sau xương ức kèm khó thở, có thể kèm ho ra máu hoặc vã mồ hôi.
Nguyên nhân đau ngực liên quan đến phổi
Phổi là bộ phận quan trọng và có kích thước chiếm phần lớn khoang ngực, vì vậy các tổn thương hoặc rối loạn tại phổi sẽ gây đau ngực diện rộng, lan sang cả bên trái và phải. Một số bệnh lý tại phổi có thể khiến bệnh nhân bị đau ngực như viêm màng phổi, tràn khí màng phổi, viêm phổi, bệnh hen phế quản, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính,…
Nhồi máu cơ tim
Viêm màng phổi là tình trạng lớp màng bao xung quang phổi bị viêm hoặc kích ứng. Nguyên nhân viêm màng phổi có thể do nhiễm virus hoặc vi khuẩn; các rối loạn tự miễn như lupus, viêm khớp dạng thấp; do dùng thuốc bao gồm procainamide, hydrazine và isoniazid; phẫu thuật ngực và ung thư. Đau ngực kiểu viêm màng phổi thường khá đặc trưng được gây ra bởi hít thở, ho hoặc di chuyển ngực.
Tràn khí màng phổi
Tràn khí màng phổi là tình trạng khoang màng phổi bị tích tụ khí làm cho phổi bị xẹp thụ động, ảnh hưởng đến chức năng hô hấp của cơ thể. Bệnh thường xảy ra đột ngột, kéo dài hàng giờ và khiến người bệnh ngày càng khó thở, đây là tình trạng cấp cứu.
Viêm phổi
Viêm phổi hoặc áp xe phổi là tình trạng các túi phế nang trong phổi bị viêm do tổn thương (thường do nhiễm trùng phổi) và ảnh hưởng tới hoạt động chức năng của phổi. Viêm phổi thường gây đau ngực, sốt cao, ớn lạnh, ho và khạc ra đờm.
Bệnh hen phế quản
Bệnh hen phế quản là một tình trạng viêm và co thắt đường hô hấp. Khi lên cơn hen, đường thở co lại và việc thở ra sẽ trở nên khó khăn hơn. Ngoài khó thở nghiêm trọng, thở khò khè và ho, người bị hen có thể bị thắt nghẹt ngực hoặc thậm chí đau ngực.
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là một bệnh viêm phổi mạn tính được gây ra bởi luồng khí bị tắc nghẽn từ phổi. Các triệu chứng bao gồm khó thở, ho, tiết chất nhầy và thở khò khè, có thể gặp cảm giác nặng hay đau ngực. Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính bao gồm hai dạng:
- Khí phế thũng: tổn thương túi khí trong phổi.
- Viêm phế quản mãn tính: đặc trưng bởi sự tăng tiết nhiều đờm nhầy trong phế quản và có biểu hiện ho khạc đờm tối thiểu 3 tháng liên tục trong năm, kéo dài 2 năm liên tiếp.
Hút thuốc lá là nguyên nhân chính dẫn đến bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.
Nguyên nhân đau ngực liên quan đến phổi
Một số bệnh lý tiêu hóa cũng có thể dẫn đến triệu chứng đau ngực bao gồm:
Bệnh trào ngược dạ dày – thực quản
Trào ngược dạ dày – thực quản là tình trạng dịch vị axit trong dạ dày bị trào ngược vào thực quản, khiến lớp niêm mạc bị tổn thương, người bệnh sẽ có cảm giác đau vùng xương ức hay thượng vị kiểu nóng rát (nóng rát thượng vị), xảy ra sau khi ăn và khi nằm ngửa, giảm đau khi sử dụng antacid. Trong một số trường hợp nặng, bệnh nhân sẽ đi kèm với triệu chứng ợ chua, ợ nóng, nôn ói, ói ra máu và khó nuốt.
Rối loạn chức năng nuốt
Rối loạn chức năng nuốt là tình trạng các nhóm cơ tại vùng hầu họng và thực quản bị rối loạn, mất khả năng phối hợp, co bóp giúp di chuyển thức ăn từ vùng hầu họng xuống dạ dày, khiến người bệnh khó nuốt, đau đớn.
Thủng thực quản
Vỡ hoặc thủng thực quản là tình trạng tổn thương tất cả các lớp của thành thực quản làm thông lòng thực quản với bên ngoài. Bệnh khiến các cơn đau ngực xuất hiện đột ngột và dữ dội sau khi nôn ói hoặc một thủ thuật liên quan đến thực quản.
Loét dạ dày – tá tràng
Viêm loét dạ dày – tá tràng là các vết loét phát triển trong dạ dày và đoạn đầu của tá tràng. Các tổn thương này do axit ăn mòn hoặc do nhiễm khuẩn Hp (Helicobacter pylori) phát triển ở lớp niêm mạc (lớp trong cùng của dạ dày – tá tràng). Các tổn thương này ăn sâu qua niêm mạc từ đó để lộ lớp cơ niêm mạc và hình thành vết loét.
Thuốc lá, rượu bia, thuốc giảm đau như NSAIDs hoặc aspirin có thể khiến lớp niêm mạc dạ dày, tá tràng bị loét. Vị trí đau thường xuất hiện tại vùng thượng vị (đau thượng vị) hoặc sau xương ức kiểu nóng rát, cơn đau có thể lan sang ngực bên trái hoặc phải.
Bệnh lý về túi mật và tuyến tụy
Bệnh lý về túi mật và tuyến tụy như sỏi mật, viêm túi mật hoặc tuyến tụy có thể gây ra các cơn đau bụng và lan rộng sang ngực.
Nguyên nhân đau ngực liên quan đến phổi
Triệu chứng đau ngực cũng có thể đến từ các chấn thương hoặc các vấn đề sức khỏe ảnh hưởng đến cấu trúc lồng ngực như:
Thủng thực quản
Viêm khớp sụn sườn (costochondritis) là tình trạng viêm các khớp nối giữa sụn xương sườn với xương ức, mặc dù gây viêm và đau nhưng đây không phải là tình trạng nguy hiểm đến tính mạng và có thể điều trị.
Đau cơ, căng cơ
Đau cơ, căng cơ: các hội chứng đau nhức cơ bắp mạn tính như đau cơ xơ hóa có thể gây ra các cơn đau cơ ngực kéo dài.
Chấn thương xương sườn
Chấn thương xương sườn: các tổn thương hoặc chấn thương nặng ở xương sườn hoặc các nhóm cơ liên sườn cũng gây đau lồng ngực như xương sườn bị bầm hay gãy.
Đau ngực do các nguyên nhân khác
Ngoài các nguyên nhân trên, đau ngực cũng có thể do các vấn đề khác gây ra như:
Vấn đề tâm lý
Một số người bệnh gặp vấn đề gây ra tình trạng hoảng loạn, áp lực, căng thẳng trong công việc và cuộc sống có thể dẫn đến các cơn đau ngực đi kèm với tim đập nhanh, thở gấp đổ mồ hôi, khó thở, buồn nôn, chóng mặt,… các triệu chứng này thường hết khi người bệnh được điều trị tâm lý hoặc đã vượt qua giai đoạn khó khăn này.
Bệnh Zona
Bệnh Zona thần kinh hay còn gọi là Shingles là bệnh nhiễm trùng da được gây ra bởi virus thủy đậu, có thể gây đau đớn và xuất hiện các đốm mụn nước từ lưng đến ngực.
CÂU HỎI TỔNG HỢP
Đau ngực là cảm giác đau ở vùng ngực từ mức ngang vai đến mức dưới cùng của xương sườn. Cơn đau xuất hiện dưới nhiều hình thức từ đau nhói đến đau âm ỉ, đau kéo dài hoặc thoáng qua, cơn đau xuất hiện tại ngực bên trái hoặc phải, đôi khi lan rộng ta toàn bộ vùng ngực. Đau ngực có thể kèm theo triệu chứng khó thở, đau đầu, chóng mặt,…
Nguyên nhân gây triệu chứng đau ngực đến từ nhiều nguyên nhân do tim hoặc không do tim.
Nguyên nhân gây đau ngực có thể dựa theo vị trí các cơ quan bao gồm:
- Nguyên nhân liên quan đến tim.
- Nguyên nhân liên quan đến phổi.
- Nguyên nhân liên quan đến từ hệ tiêu hóa.
- Nguyên nhân do cơ xương khớp.
- Đau ngực do các nguyên nhân khác.
Cô Bác, Anh Chị cần được cấp cứu nếu cơn đau ngực có các tính chất sau:
- Cảm giác ngực bị chèn ép, căng tức, đau nhói dưới xương ức.
- Đau ngực lan đến hàm, cánh tay hoặc lưng.
- Đau ngực dữ dội, đột ngột kèm theo khó thở đặc biệt là sau một thời gian dài không vận động.
- Buồn nôn, chóng mặt, suy nhược, ngất xỉu, nhịp tim nhanh, thở nhanh, lú lẫn hoặc đổ mồ hôi nhiều.
- Huyết áp hoặc nhịp tim rất thấp.
Cần đặc biệt chú ý nếu triệu chứng đau ngực xuất hiện ở:
- Người lớn trên 40 tuổi, có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ mắc CAD như tiền sử gia đình có người mắc bệnh, sử dụng nhiều thuốc lá, béo phì, tăng cholesterol, đái tháo đường,…
- Gia đình có người mắc bệnh tim sớm.
Đối với một cơn đau ngực cấp kèm bất thường các thông số sinh tồn (mạch, huyết áp, nhịp tim, nhịp thở, nhiệt độ,…) cần hết sức chú ý những nguyên nhân nguy hiểm, cấp tính thường gặp và có thể gây chết người của đau ngực như nhồi máu cơ tim, thuyên tắc phổi, bóc tách động mạch chủ, tràn khí màng phổi,…
Sau khi xử trí hay loại trừ các nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng, bác sĩ tại bệnh viện/ phòng khám nội soi sẽ tiến hành khám lâm sàng cẩn thận và thực hiện các cận lâm sàng để chẩn đoán nguyên nhân gây đau ngực.
Lựa chọn phương pháp điều trị đau ngực phù hợp sẽ dựa vào nguyên nhân gây ra triệu chứng và tình trạng sức khỏe của mỗi bệnh nhân.
Nguyên tắc xử trí đau ngực bao gồm:
- Cần sớm đưa ra chẩn đoán xác định trước khi quyết định điều trị triệu chứng.
- Kiểm soát hô hấp – huyết động: thở ôxy, dẫn lưu khí nếu tràn khí màng phổi. Cho sử dụng thuốc hạ áp nếu người bệnh tăng huyết áp, thuốc vận mạch nếu truỵ mạch, tụt huyết áp, điều trị loạn nhịp tim nếu có.
- Điều trị triệu chứng: tuỳ theo mức độ đau ngực và nguyên nhân gây đau, nếu đau ngực nhiều có thể cho morphin tiêm.
- Điều trị theo nguyên nhân: tuỳ nguyên nhân mà có phương pháp điều trị khác nhau.
Tài liệu tham khảo
- Trung Tâm Nội Soi Tiêu Hóa – Endo Clinic
- Andrea D. Thompson, MD, PhD & Michael J. Shea, MD. Chest pain. 09 2020. https://www.msdmanuals.com/home/heart-and-blood-vessel-disorders/symptoms-of-heart-and-blood-vessel-disorders/chest-pain (đã truy cập 09 23, 2021).
- Ken Johnson & Sassan Ghassemzadeh. “Chest pain.” Trong StatPearls, của Ken Johnson & Sassan Ghassemzadeh. Treasure Island: StatPearls, 2021.
- Mayo Clinic Staff. Chest pain. 08 12 2017. https://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/chest-pain/symptoms-causes/syc-20370838 (đã truy cập 09 23, 2021).
- Moores, Danielle. Why Am I Having Chest Pain? 06 11 2019. https://www.healthline.com/health/chest-pain (đã truy cập 09 23, 2021).
- Richard N. Fogoros, MD. When Is Chest Pain an Emergency? 06 04 2020. https://www.verywellhealth.com/chest-pain-emergency-1745275 (đã truy cập 09 23, 2021).
TIN SỨC KHỎE
Tổng hợp tin sức khỏe tiêu hóa, cẩm nang sức khỏe tiêu hóa. Nếu nội dung Quý khách quan tâm chưa có, Quý khách có thể liên hệ để đặt câu hỏi với bác sĩ để được tư vấn.
ĐỐI TÁC
ĐẶT LỊCH KHÁM TIÊU HÓA
Đặt lịch khám bệnh tiêu hóa hoặc tầm soát ung thư tiêu hóa với bác sĩ của Endo Clinic. Các trợ lý Bác sĩ sẽ liên hệ để xác nhận cuộc hẹn với Quý Khách Hàng
Endo Clinic
Tiêu Hoá Khoẻ & Ngừa Ung Thư
THỜI GIAN KHÁM BỆNH: THỨ 2 - THỨ 7 (6H - 15H)
VÀ CHỦ NHẬT (7H - 12H)